Tổng Bí thư Tô Lâm thăm chính thức Hàn Quốc: Nâng tầm quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc trong bối cảnh mới
Trung tâm Hàn Quốc học giới thiệu bài viết của PGS.TS. Bùi Hải Đăng, Giám đốc Trung tâm về quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc, đăng trên Báo CATP.HCM ngày 13/8/2025.
Chuyến thăm chính thức Hàn Quốc của Tổng Bí thư Tô Lâm (10–13/8/2025) diễn ra gần ba năm sau khi hai nước nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện (12/2022). Đây là chuyến công du cấp cao nhất của lãnh đạo Việt Nam tới Hàn Quốc kể từ năm 2014, đồng thời là chuyến thăm cấp Nhà nước đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm trên cương vị mới. Tổng Bí thư Tô Lâm cũng là lãnh đạo nước ngoài đầu tiên đến tham kể từ khi Tổng thống Lee Jae-myung nhậm chức hồi đầu tháng 6/2025; đây là tín hiệu chính trị mạnh mẽ khẳng định Seoul coi Việt Nam là đối tác hàng đầu tại Đông Nam Á, không chỉ về kinh tế – thương mại mà cả hợp tác an ninh – quốc phòng, khoa học – công nghệ và giao lưu nhân dân. Vì thế, chuyến thăm được kỳ vọng vừa củng cố niềm tin chiến lược, vừa mở ra cơ hội thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực mới, trong đó có quốc phòng và công nghiệp quốc phòng.
Tuyên bố chung: các lĩnh vực và nội dung hợp tác then chốt
Lãnh đạo Việt Nam và Hàn Quốc ra tuyên bố chung nêu 06 lĩnh vực trọng tâm cần tăng cường hợp tác để làm sâu sắc quan hệ đối tác chiến lược toàn diện: (i) Củng cố vững chắc lòng tin chính trị và đẩy mạnh hợp tác thực chất lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, an ninh; (ii) Tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học công nghệ; (iii) Hợp tác lao động, y tế, giáo dục; (iv) phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu, nông nghiệp và cơ sở hạ tầng; (v) hợp tác văn hóa, thể thao, du lịch, truyền thông và giao lưu nhân dân; (vi) hợp tác chặt chẽ trên các diễn đàn, cơ chế quốc tế và khu vực. Cụ thể về các nội dung hợp tác then chốt sau:
Kinh tế – thương mại: Hai nước hướng tới mục tiêu kim ngạch 150 tỷ USD vào năm 2030. Hai bên dự kiến triển khai Chương trình hành động hợp tác kinh tế – thương mại giai đoạn 2025–2030, giảm rào cản kỹ thuật và thuế quan, tận dụng tối đa các FTA song phương và đa phương (VKFTA, RCEP). Việt Nam muốn tăng xuất khẩu hàng công nghệ cao, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu của Samsung, LG, SK hynix, nâng cấp vai trò từ gia công sang sản xuất các khâu then chốt như bán dẫn, pin năng lượng, module 5G; đồng thời tăng thu hút FDI chất lượng cao đi đôi với đào tạo nhân lực kỹ thuật cao.
Khoa học – công nghệ và hạ tầng: Hợp tác trong bán dẫn, năng lượng hạt nhân, đường sắt tốc độ cao, trung tâm dữ liệu và AI, cụ thể là: Hợp tác R&D và đào tạo kỹ sư bán dẫn; khả năng thiết lập trung tâm thiết kế chip tại Việt Nam; Nghiên cứu ứng dụng năng lượng hạt nhân hòa bình, chuẩn bị khung pháp lý và nhân lực nếu Việt Nam tái khởi động chương trình điện hạt nhân; Hợp tác đường sắt tốc độ cao dựa trên kinh nghiệm của Hàn Quốc; chuyển giao công nghệ thi công, vận hành. Bên cạnh đó còn là xây dựng các trung tâm dữ liệu đạt chuẩn quốc tế, phát triển AI ứng dụng trong chính phủ điện tử, y tế, giáo dục, logistics.
Quốc phòng – an ninh: Tiềm năng thúc đẩy các hợp đồng vũ khí, tăng cường huấn luyện, trao đổi công nghệ quốc phòng. Cụ thể là: Thúc đẩy hợp đồng pháo tự hành K9 và xe tiếp đạn K10 trị giá khoảng 276–300 triệu USD; tiềm năng mở rộng sang hệ thống phòng không KM-SAM, radar, tàu tuần tra, UAV; Tăng cường huấn luyện sĩ quan, kỹ thuật vận hành – bảo trì vũ khí, hợp tác gìn giữ hòa bình LHQ, an ninh hàng hải. Bên cạnh đó, tăng cường trao đổi công nghệ quốc phòng, hợp tác sản xuất hoặc lắp ráp vũ khí tại Việt Nam, phát triển công nghiệp quốc phòng hỗ trợ.
Hợp tác đa phương: Phối hợp tại APEC 2025 (Hàn Quốc chủ trì) và APEC 2027 (Việt Nam chủ trì); đồng thuận về tầm nhìn Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Cụ thể là: Phối hợp chặt chẽ trong APEC 2025 (Hàn Quốc) và APEC 2027 (Việt Nam), thúc đẩy sáng kiến kinh tế số, tăng trưởng xanh, an ninh chuỗi cung ứng; Cùng duy trì tầm nhìn Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở, nhấn mạnh tự do hàng hải, tôn trọng luật pháp quốc tế (UNCLOS 1982); và tăng hợp tác về an ninh phi truyền thống (an ninh mạng, chống khủng bố, cứu trợ thiên tai) và kết nối Hàn Quốc với các cơ chế khu vực ASEAN (EAS, ARF, ADMM+).
Một số vấn đề đặt ra
Những chỉ dấu điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Hàn Quốc dưới thời Tổng thống Lee Jae-myung theo hướng thực tế hơn và có phần kế thừa di sản thời kỳ Tổng thống Moon Jae-in sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hơn các nỗ lực hiện thực hóa quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Hàn Quốc trong thời gian tới.
Kỳ vọng lớn nhất từ chuyến thăm là tạo cú hích chính trị để hai bên tái khẳng định cam kết chiến lược, mở đường cho việc cụ thể hóa các lĩnh vực hợp tác, đặc biệt là công nghệ cao và quốc phòng (mảng còn hạn chế trong giai đoạn trước). Cụ thể là tạo đột phá trong hợp tác công nghiệp quốc phòng, bắt đầu từ các hợp đồng cụ thể, tiến tới hợp tác sản xuất, bảo trì và R&D tại Việt Nam; hay Thiết lập cơ chế phối hợp ứng phó các thách thức an ninh phi truyền thống (an ninh mạng, biến đổi khí hậu, dịch bệnh).
Để khắc phục thách thức, hai bên cần giữ ổn định chính sách “Hướng Nam mới” hoặc tương đương, trong đó Việt Nam là đối tác trụ cột của Hàn Quốc tại ASEAN; Tăng tính thể chế cho hợp tác quốc phòng: thành lập ủy ban hỗn hợp, trung tâm đào tạo chung, cơ sở bảo trì vũ khí ở Việt Nam; Kết nối chiến lược quốc gia: lồng ghép các dự án hợp tác vào chiến lược phát triển ngành công nghiệp quốc phòng và khoa học – công nghệ của Việt Nam; hay tận dụng hợp tác đa phương (APEC, ASEAN, Liên Hợp Quốc) để bổ trợ cho hợp tác song phương.
Tóm lại, chuyến thăm Hàn Quốc của Tổng Bí thư Tô Lâm diễn ra trong bối cảnh có nhiều cơ hội đột phá cho việc triển khai Đối tác Chiến lược toàn diện Việt Nam – Hàn Quốc. Để quan hệ này phát huy tối đa tiềm năng, hai bên cần duy trì niềm tin chính trị, gia tăng tính thể chế trong hợp tác quốc phòng, và xử lý khéo léo áp lực từ môi trường địa chính trị, qua đó vừa củng cố vị thế chiến lược, vừa đảm bảo quyền tự chủ cho mỗi quốc gia.
Chuyến thăm của Tổng Bí thư Tô Lâm không chỉ là một sự kiện ngoại giao cấp cao, mà còn là phép thử chiến lược cho khả năng hai nước biến những tuyên bố chính trị thành kết quả cụ thể. Thành công của quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện phụ thuộc vào ba yếu tố then chốt: (1) sự kiên định trong định hướng chính sách và ưu tiên của cả hai bên; (2) năng lực thể chế hóa các cam kết, đặc biệt trong quốc phòng – an ninh và công nghệ cao; (3) khả năng cùng thích ứng trước những biến động địa chính trị.
Nếu xử lý hài hòa được ba yếu tố này, Việt Nam và Hàn Quốc sẽ không chỉ củng cố vị thế ở khu vực, mà còn trở thành hình mẫu hợp tác chiến lược mới giữa một quốc gia ASEAN và một cường quốc tầm trung trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược toàn cầu. Đây là thời điểm hai bên cần biến “tuyên bố” thành “hành động”, bảo đảm mọi thỏa thuận ký kết được triển khai hiệu quả, mang lại lợi ích cụ thể cho cả hai dân tộc và góp phần vào hòa bình, ổn định, phát triển chung của khu vực./.
PGS.TS. Bùi Hải Đăng
Trung tâm Hàn Quốc học, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM